GIẢ MẠO NHÃN HIỆU VÀ BIỆN PHÁP XỬ LÝ HÀNH VI NÀY
Sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia cần phải đi đôi với sự công bằng, tiến bộ. Trong tình hình cạnh tranh vô cùng khốc liệt, có không ít những chủ thể vì chạy theo mục tiêu lợi nhuận mà thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; làm trái với các nguyên tắc, chuẩn mực trong kinh doanh. Và trong số đó không thể không kể tới hành vi Giả mạo nhãn hiệu, đang diễn ra vô cùng phổ biến trong thị trường hiện nay. Các hành vi vi phạm liên quan tới xâm phạm về nhãn hiệu nói chung và giả mạo nhãn hiệu nói riêng chủ yếu hướng tới các nhãn hiệu uy tín trên thị trường, với mục đích là gây nhầm lẫn cho khách hàng, từ đó thu lợi bất chính. Điều này không chỉ ảnh hưởng tới sự quản lý của Nhà nước, tới doanh thu, uy tín của cá nhân, tổ chức khác mà còn gây ra tác động vô cùng tiêu cực tới người tiêu dùng – là hành vi vi phạm pháp luật đáng bị lên án.
Vậy, nhãn hiệu là gì?
Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ chức, cá nhân khác nhau. Như vậy, có thể thấy “khả năng phân biệt” là đặc điểm cơ bản trong khái niệm nhãn hiệu và được coi là một điều kiện bắt buộc để được cấp văn bằng bảo hộ.
Giả mạo nhãn hiệu là gì?
Mặc dù theo khoản 1 Điều 213 Luật SHTT 2005 sửa đổi, bổ sung 2009, 2019 thì hàng hóa giả mạo về SHTT bao gồm hàng hóa giả mạo nhãn hiệu và giả mạo chỉ dẫn địa lý nhưng trong bài viết này, ta chỉ tìm hiểu về hành vi giả mạo nhãn hiệu với nghĩa thuần nhãn hiệu, nên sẽ không đề cập tới hành vi giả mạo chỉ dẫn địa lý. Do đó, đối với khái niệm hàng hóa giả mạo nhãn hiệu theo quy định của pháp luật Việt Nam, IP Leader đưa ra khái niệm sau:
Hàng hoá giả mạo nhãn hiệu là hàng hoá, bao bì của hàng hoá có gắn nhãn hiệu, dấu hiệu trùng hoặc khó phân biệt với nhãn hiệu đang được bảo hộ dùng cho chính mặt hàng đó mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu. Như vậy, có thể nhận định rằng hành vi giả mạo nhãn hiệu được coi như là một trường hợp của hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu ở mức độ nguy hiểm hơn. Theo đó, là các hành vi được thực hiện mà không được phép của chủ sở hữu nhãn hiệu như sử dụng dấu hiệu trùng/tương tự với nhãn hiệu được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ trùng/tương tự hoặc liên quan tới hàng hóa dịch vụ thuộc danh mục đăng ký kèm theo nhãn hiệu đó, nếu việc sử dụng có khả năng gây nhầm lẫn về nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ. Xét về bản chất, khi đối tượng sở hữu công nghiệp (SHCN) bị xâm phạm nói chung, và nhãn hiệu nói riêng thì mục đích của hành vi xâm phạm này là lợi dụng uy tín, danh tiếng của sản phẩm, dịch vụ hoặc uy tín của chủ sở hữu các đối tượng SHCN đã tạo dựng được trên thị trường.
Ngoài ra, một trong số các hành vi cụ thể được coi là hành vi giả mạo nhãn hiệu còn có thể kể đến là hành vi sản xuất, buôn bán hàng hóa giả mạo nhãn hiệu. Theo đó, sản xuất là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động chế tạo, chế bản, in, gia công, đặt hàng, sơ chế, chế biến, chiết xuất, tái chế, lắp ráp, pha trộn, san chia, sang chiết, nạp, đóng gói và hoạt động khác làm ra hàng hóa. Còn hành vi buôn bán hàng hóa giả mạo nhãn hiệu được hiểu là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động chế tạo, chế bản, in, gia công, đặt hàng, sơ chế, chế biến, chiết xuất, tái chế, lắp ráp, pha trộn, san chia, sang chiết, nạp, đóng gói và hoạt động khác làm ra hàng hóa mà đối tượng là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu.
Biện pháp xử lý hành vi giả mạo nhãn hiệu?
Song song với việc là đối tượng được đăng ký bảo hộ chiếm tỷ lệ cao nhất thì nhãn hiệu cũng chính là đối tượng SHCN được bảo hộ bị xâm phạm nhiều nhất trên thực tế. Nên việc xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm bằng công cụ pháp luật là vô cùng cần thiết và tùy theo mức độ vi phạm việc giả mạo nhãn hiệu mà có thể bị xử lý dân sự, xử lý hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ nhất, biện pháp xử lý dân sự:
Biện pháp dân sự được áp dụng để xử lý các hành vi xâm phạm theo yêu cầu của chủ thể quyền SHTT hoặc của các tổ chức hay cá nhân mà bị thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra, đặc biệt hơn là kể cả khi hành vi đó đã và đang bị xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc biện pháp hình sự. Quy định này càng làm củng cố thêm về khả năng áp dụng của biện pháp dân sự là rộng hơn cả so với các biện pháp còn lại.
Các biện pháp dân sự cụ thể được áp dụng để xử lý các tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền SHTT nói chung và hành vi giả mạo nhãn hiệu nói riêng như sau:
- Buộc chấm dứt hành vi vi phạm;
- Buộc xin lỗi, cải chính công khai;
- Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;
- Buộc bồi thương thiệt hại;
- Buộc tiêu hủy hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm quyền SHTT với điều kiện để không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể quyền SHTT.
Thứ hai, biện pháp xử lý hành chính:
- Đối với hành vi buôn bán hàng hóa giả mạo nhãn hiệu:
Tùy vào từng trường hợp về giá trị hàng giả tương đương so với số lượng của hàng thật hoặc số tiền thu lợi bất chính từ hành vi giả mạo nhãn hiệu, chủ thể vi phạm có thể bị phạt tiền với mức phạt thấp nhất là 1.000.000 đồng và mức cao nhất là 50.000.000 đồng. Hơn nữa, đối với hành vi nhập khẩu hàng giả mạo nhãn hiệu thuộc các trường hợp sau thì còn bị phạt tiền gấp hai lần mức phạt trên, cụ thể:
- Là thực phẩm, phụ gia thực phẩm, chất bảo quản thực phẩm, chất hỗ trợ chế biến thực phẩm, thuốc, nguyên liệu làm thuốc mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự;
- Là thức ăn chăn nuôi, thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trông thủy sản, sản phẩm xử lý chất thải chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi;
- Là mỹ phẩm, trang thiết bị y tế, chất tẩy rửa, hoá chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế, xi măng, sắt thép xây dựng, mũ bảo hiểm.
Theo đó, bên cạnh các hình thức phạt tiền như trên thì còn có thể bị áp dụng các hình thức xử phạt bổ sung quy định tại khoản 3 Điều này:
- Tịch thu tang vật vi phạm đối với hành vi vi phạm quy định tại Điều này, trừ trường hợp áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả;
- Tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ hành nghề từ 01 tháng đến 03 tháng trong trường hợp vi phạm nhiều lần hoặc tái phạm.
Ngoài ra, vì hành vi giả mạo nhãn hiệu gây hậu quả trực tiếp tới lợi ích hợp pháp của người sản xuất (các chủ sở hữu bị giả mạo nhãn hàng hóa, bao bì hàng hóa) và của người tiêu dùng nên Chính phủ cũng có quy định về biện pháp khắc phục hậu quả đối với hành vi vi phạm pháp luật này như sau:
- Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên nhãn, bao bì hàng giả hoặc buộc tiêu hủy hàng giả đối với hành vi vi phạm, trừ trường hợp áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả dưới đây:
- Buộc đưa ra khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoặc tái xuất hàng giả đối với hành vi nhập khẩu hàng giả;
- Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.
- Đối với hành vi sản xuất hàng hóa giả mạo nhãn hiệu:
Dựa trên giá trị tương đương của hàng giả so với hàng thật hoặc số tiền thu lợi bất chính từ hành vi giả mạo nhãn hiệu đó mà chủ thể vi phạm cũng sẽ bị phạt tiền ở mức thấp nhất là 1.000.000 đồng và mức cao nhất là 50.000.000 đồng. Bên cạnh đó, đối với hành vi sản xuất hàng hóa giả mạo nhãn hiệu, ngoài hai hình thức xử phạt bổ sung như trên thì sẽ có thêm hình thức khác như:
- Tịch thu phương tiện là công cụ, máy móc được sử dụng để sản xuất hàng giả;
- Đình chỉ một phần hoặc toàn bộ hoạt động sản xuất vi phạm từ 03 tháng đến 06 tháng.
Còn đối với các biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi này thì chỉ có hai biện pháp khắc phục sau:
- Buộc loại bỏ yếu tố vi phạm trên nhãn, bao bì hàng giả hoặc buộc tiêu hủy hàng giả đối với hành vi vi phạm;
- Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm.
Thứ ba, biện pháp xử lý hình sự:
Hành vi giả mạo nhãn hiệu hàng hóa là hành vi vi phạm pháp luật, hành vi này không chỉ xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước Việt Nam mà nó còn xâm phạm đến quyền SHCN đối với nhãn hiệu của các chủ thể/đối tượng được pháp luật SHTT bảo vệ. Vì vậy, hành vi giả mạo nhãn hiệu này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh: Tội xâm phạm quyền SHCN hoặc Tội sản suất, buôn bán hàng giả.
- Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
Bất kỳ chủ thể nào cố ý xâm phạm quyền SHCN đối với nhãn hiệu đang được bảo hộ tại Việt Nam mà đối tượng là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu với quy mô thương mại hoặc thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng đến dưới 300.000.000 đồng hoặc gây thiệt hại cho chủ sở hữu nhãn hiệu từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng hoặc hàng hóa vi phạm trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm. Ngoài ra, còn có các quy định khác như khung hình phạt tăng nặng; các quy định cho chủ thể pháp nhân thương mại được quy định tại các khoản còn lại tại Điều 226 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017.
- Tội sản xuất, buôn bán hàng giả
Nếu không thuộc trường hợp ngoại lệ là sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm; thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh; thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, giống vật nuôi mà người nào sản xuất, buôn bán hàng giả thuộc các trường hợp tại Điều 192 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 thì bị phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 1.000.000.000 đồng hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Bên cạnh đó, còn có các quy định về khung hình phạt tăng nặng tại các khoản còn lại theo Điều này về việc xử lý hành vi vi phạm sản xuất, buôn bán hàng giả mà cụ thể ở đây là giả mạo về nhãn hiệu.
- Cơ sở pháp lý
- Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017;
- Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009 và 2019;
- Nghị định số 105/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ;
- Nghị định số 99/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp;
Nghị định số 98/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.